15
TẬP ĐOÀN
J.P. MORGAN & Co.
Nguồn vốn không bao giờ cạn
House of Morgan lần đầu tiên xuất hiện với tư cách là một tổ
chức tài chính đầy quyền lực vào khoảng giữa thế kỷ 19. Họ là tổ chức
đi đầu trong việc hình thành thế giới tập đoàn như U.S. Steel (Tập đoàn
Thép Hoa Kỳ) và General Electric. Họ đã từng là cổ đông chính chi phối
ngành đường sắt nước Mỹ và cho chính phủ các nước Pháp, Anh,
Mexico và Nga vay mượn hàng triệu đô-la. Họ đã hơn một lần ra tay
giúp giữ vững hệ thống tiền tệ Hoa Kỳ khi nó có nguy cơ sụp đổ. Họ đã
trải qua cuộc Đại Suy thoái, hai cuộc chiến tranh thế giới và những quy
định nghiêm ngặt của liên bang – những tác nhân đã buộc họ phải từ
bỏ lĩnh vực chứng khoán – một trong những công việc kinh doanh sinh
lợi nhất của mình. Tuy nhiên, dù là một tập đoàn tài chính hùng mạnh,
họ cũng không thể tránh khỏi những cơn chấn động lớn đã biến đổi
ngành công nghiệp trong những năm gần đây.
J.P. Morgan & Co. khởi phát từ một ngân hàng thương mại ở
London thành lập vào những năm 1830 và nhanh chóng vượt ra khỏi
phạm vi của một công ty tài chính bình thường. Từ trụ sở chính của họ
ở phố Wall, New York đến các văn phòng ở hơn 30 quốc gia, công ty
được hình thành bởi ba thế hệ nhà Morgan này đã tư vấn tài chính cho
những con người xuất chúng và quyền lực nhất hành tinh. Họ đã cam
kết tài trợ cho một số đợt bán chứng khoán và hợp nhất tập đoàn lớn
nhất từ trước đến nay. Họ từng là nguồn lực kinh tế chủ yếu cho chính
phủ Mỹ, và những thành viên trong dòng họ Morgan được công nhận
là những chuyên gia tài chính cố sức ảnh hưởng lớn nhất thời nay.
Nhưng điều này không có nghĩa là nhà Morgan luôn luôn được
quý trọng. Với lòng tham và sự xảo quyệt ngang bằng, họ được cho
là những người thường xuyên dùng nhiều mánh khóe tinh vi để thu
lợi trên sự thiệt thòi của người khác. Họ khoe khoang thành quả và
sự giàu có của mình một cách lố bịch. Họ có một sự ham thích trơ
trẽn đối với những điếu xì gà đắt tiền, những chiếc du thuyền lộng
lẫy và những kiệt tác nghệ thuật. Họ xem nền kinh tế Mỹ như sân
chơi riêng của họ, cuối cùng thị họ xa lánh cả chính phủ mà họ từng
giúp đỡ cũng như những con người đã đem lại sự giàu có cho họ.
John Pierpont Morgan (1837 –1913)
|
Quan điểm và phương pháp kinh doanh của tập đoàn này đã
thay đổi rõ rệt trong 50 năm gần đây, nhưng những thay đổi trong
thị trường tài chính cuối cùng cũng bị các đối thủ cạnh tranh bắt
kịp. Và mùa thu năm 2000, Morgan đã công bố việc họ bị mua
lại bởi một tên tuổi nổi tiếng khác trong giới ngân hàng – Chase
Manhattan - một tập đoàn có nguồn gốc, chứ chưa nói đến ảnh
hưởng và tầm quan trọng của nó, còn sâu xa và rộng lớn hơn cả
J.P.Morgan & Co.
***
Năm 1838, một thương nhân người Mỹ tên là George Peabody mở
một ngân hàng thương mại ở London. Vài năm sau đó, ông thuê một
cộng sự tên là Junius Spencer Morgan, hậu duệ của một gia đình kinh
doanh xuất chúng ở New England, người sau này sẽ lên nắm quyền
công ty vào năm 1854 và đổi tên nó thành J.S. Morgan & Co. Morgan
sau đó đã lãnh đạo công ty trong hơn ba thập niên, giữ vai trò là một
kết nối tài chính then chốt giữa Vương quốc Anh và nước Myä, và mở
đầu cho đường lối kinh doanh trong tương lai của mình với việc cho
nước Pháp mượn 50 triệu đô-la trong cuộc chiến tranh Pháp - Nga.
Trước khi chuyển đến châu Âu, Morgan đã có một cậu con trai.
Sau khi theo học nhiều ngửi trường ở Boston, Thụy Sĩ và Đức, châng
thanh niên J. Pierpont Morgan đã trở về New York làm nhân viên kế
toán trong một công ty đại diện cho công ty của cha mình. Trong suốt
những thập niên 60 và 70 của thế kỹ 19, anh đã làm việc cho một số
công ty đầu tư như Drexel, Harjes & Company of Paris. Anh thừa kế
công việc kinh doanh sau khi cha mất vào năm 1890, rồi chính thức
đổi tên công ty thành J.P. Morgan & Company và củng cố lợi tức của
nó tại châu Âu và châu Mỹ. Chỉ vài năm sau, ông cũng đã ghi dấu ấn
đầu tiên của mình trong giới tài chính bằng việc đặt vấn đề bảo trợ
cho lượng vàng dự trữ đang cạn kiệt dần của chính phủ Mỹ, đồng thời
cứu nguy cho kho bạc quốc gia.
Với trụ sở chính được đặt tại New York, J. Pierpont bắt đầu biến
J.P. Morgan thành một công ty phát triển hàng đầu trong lĩnh vực
kinh doanh Hoa Kỳ. Ông bắt đầu với việc tiến hành thống trị ngành
công nghiệp đường sắt, sắp xếp một thỏa thuận về cước chuyên chở
giữa hai đối thủ lớn nhất – công ty đường sắt New York Central và
công ty đường sắt Pennsylvania – sau đó góp phần cải tổ các công ty
khác bao gồm Southern, Erie và Northern Pacific. Bù lại, ông nhận cổ
phần trong các công ty này và có một chỗ trong hội đồng quản trị,
từ đó mở rộng tầm ảnh hưởng cũng như tài sản của mình. Vào năm
1902, ông nắm trong tay khoảng một phần sáu tổng số tuyến đường
sắt trên toàn nước Mỹ.
Morgan, với biệt danh là “Sao Mộc” vì sự thống trị cũng như quy
mô công ty của mình, đã nhanh chóng bước chân vào các lĩnh vực
khác. Ba năm sau khi hỗ trợ về mặt kinh tế cho việc thành lập Công
ty Thép Liên bang (Federal Steel) vào năm 1898, ông đã góp một tay
trong việc kết hợp hai công ty Edison General Electric và công ty
Thomson-Houston Electric lại thành General Electric. Ông góp phần
giúp kết hợp nhiều tập đoàn khổng lồ khác lại với nhau, bao gồm cả
International Harvester, AT&T, Western Union và Westinghouse.
Đã có những lời chỉ trích rằng những thương vụ như thế được trợ
vốn nhiều hơn giá trị thực của nó để Morgan có thể kiếm thêm hàng
triệu đô-la từ khoản phí đầu tư ngân hàng và lợi tức từ việc góp vốn.
Và thông qua những hành động như vậy – được các nhà quan sát thời
đó gọi một cách mỉa mai là “Morgan hóa” – Pierpont thực sự đã trở
thành chủ ngân hàng tư nhân quyền lực nhất nước Mỹ. Nếu John D.
Rockefeller và Andrew Carnegie có công trong việc xây dựng lại hệ
thống kinh tế quy mô nhỏ của Mỹ thành sức mạnh công nghiệp hóa,
thị có thể nói rằng Morgan là người đã hỗ trợ về mặt tài chính cho sự
biến đổi đó. Với vóc dáng mạnh mẽ, cái mũi trêu luôn ửng đỏ và
giọng nói oang oang của mình, ông điều hành công việc từ văn phòng
bề thế cạnh bên Sàn giao dịch chứng khoán New York, hay từ chiếc
du thuyền Corsair dài hơn 90 mết của ông, vốn thường xuyên ra vào
cảng New York. Các sở thích cá nhân của ông rất tốn kém, nhưng với
tài sản khổng lồ của mình, ông đánh giá tính cách và sự thẳng thắn
cao hơn sự giàu có và quyền lực khi chọn đối tác và bạn bè.
Morgan cũng đã có những tính toán sai lầm nghiêm trọng trong
kinh doanh, như việc thành lập công ty đầu cơ tàu thuyền Mercantile
Marine (sau đó đã thất bại) và bỏ qua sự xuất hiện của xe ö tư
(phương tiện này đã đe dọa sự tồn vong của những tuyến đường sắt
mà ông sở hữu). Nhưng công ty của ông vẫn tiếp tục phát đạt và giúp
ngăn chặn những thảm họa tiềm tàng trong nền kinh tế. Ví dụ như
trong suốt thời gian thị trường chứng khoán hoảng loạn vào năm
1907, ông đã thuyết phục các chủ ngân hàng tập hợp một quỹ cứu hộ
để phòng ngừa sự sụp đổ của nền tài chính chung. Bước đi này còn
thuyết phục chính phủ Mỹ rằng ngân hàng quốc gia phải tránh can
thiệp vào các ngân hàng tư nhân trong tương lai, mở đường cho việc
thông qua Đạo luật Dự trữ Liên bang năm 1913. Cũng trong năm này,
Morgan qua đời tại Rome, Italia.
Con trai của Pierpont, J.P. “Jack” Morgan, đã gia nhập vào công
ty từ năm 1892 và ngay lập tức nắm quyền với tư cách là một đại
cổ đông. Ông tiếp tục hướng công ty theo con đường trước đó trong
suốt ba thập niên tiếp theo, trải qua những hỗn loạn kinh tế sau đó
gây ra bởi sự thịnh vượng, cuộc Đại suy thoái, và hai cuộc chiến
tranh thế giới. Trong suốt thời gian đó, công ty cũng là đại diện tài
chính cho chính phủ Pháp và Anh mua hàng tỉ đô-la các thiết bị
quân dụng từ các công ty của Mỹ, đồng thời trợ vốn phần lớn cho
công cuộc tái thiết sau chiến tranh. Nếu Morgan cha là một chuyên
gia tài chính bậc thầy, thị Morgan con cũng là một hình mẫu ngân
hàng quan trọng nhất trong thời đại của mình.
J.P. Morgan & Co. bị đổ lỗi một phần trong sự kiện thị trường
chứng khoán sụp đổ vào năm 1929, mà hậu quả làm 13 triệu người
Mỹ mất việc và hàng ngàn công ty đầu tư phá sản. Và kết quả là sự
ra đời của Đạo luật Ngân hàng năm 1933, hay còn được biết với tên
gọi Đạo luật Glass-Steagall. Đạo luật này buộc Morgan và các công ty
tài chính khác phải tách riêng các hoạt động ngân hàng và hoạt động
chứng khoán. Khi đạo luật mới bắt đầu được áp dụng, Harry, con trai
của Jack, đã bỏ công ty cùng với khoảng hai tá nhân viên khác để
thành lập ngân hàng đầu tư Morgan Stanley. Hầu hết những người
khác vẫn ở lại với công ty, sau đó công ty được cổ phần hóa vào năm
1942.
Năm sau đó, Jack Morgan chết ở Boca Grande, Florida. Một cổ
đông tên là Thomas Lamont trở thành chủ tịch, và điều này đã đặt
dấu chấm hết cho “triều đại” Morgan: Lần đầu tiên trong gần một thế
kỷ, không còn một thành viên nào của gia đình Morgan lãnh đạo tập
đoàn này.
***
Để cạnh tranh hiệu quả hơn trong lĩnh vực cho vay, Tập đoàn
Morgan đã sáp nhập với một ngân hàng thương mại lớn khác vào
năm 1959. Trong hơn một thập niên sau đó, họ bắt đầu bảo hiểm
chứng khoán ở châu Âu, nơi mà những quy định ngân hàng vẫn còn
chưa khắt khe lắm, nhưng vẫn mơ ước trở lại với việc kinh doanh ở
quê nhà.
Một năm sau khi phát triển một chương trình đột phá mà nhờ đó
chính phủ Mexico có thể tổ chức lại số nợ bằng cách phát hành trái
phiếu (chương trình này sau đó cũng được áp dụng để giúp Nga và
các nước đang phát triển khác), ước mơ của họ đã trở thành hiện
thực. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã rút lại lệnh cấm và vào năm 1989
J.P. Morgan lại được tham gia vào lĩnh vực tài trợ công ty. Công ty
nhanh chóng quay lại đường đua, và cổ phiếu của họ đạt giá trị cao
nhất trong số tất cả các ngân hàng trên toàn nước Mỹ.
Trong suốt thập niên 90, Morgan thúc đẩy hướng bảo hiểm kinh
doanh ở Mỹ đồng thời mua lại 45% cổ phiếu của công ty đầu tư
American Century. Bước đi này đã làm tăng tổng thu nhập của công
ty, nhưng họ vẫn chỉ được xếp hạng ở nửa dưới trong số các công ty
bảo hiểm có cổ phần ban đầu và các thỏa thuận thương mại hấp dẫn
khác. Morgan đã đáp trả bằng cách thuê nhiều chuyên gia để tập
trung vào lĩnh vực viễn thông, công nghệ cao, các công ty Internet,
đồng thời mở ra một bộ phận gọi là LabMorgan để phát triển các dịch
vụ thương mại điện tử. Họ cũng bổ sung các sản phẩm mở rộng cơ sở
nền tảng của mình trong số những khách hàng ít giàu có hơn.
![]() |
Trụ sở Tập đoàn tài chính JP Morgan tại New York
|
Trong khi bước đi này mang đến một hướng kinh doanh mới đáng ghi
nhận, công ty cũng chứng tỏ là họ không đáp ứng được nhu cầu của
ngành công nghiệp đang định hình lại một cách đột ngột của họ. Và vì vậy,
vào tháng 9 năm 2000, họ chấp nhận để Tập đoàn Chase Manhattan
mua lại với giá khoảng 31 tỉ đô-la. Chase, được thành lập vào năm
1799, đã cố gắng biến mình thành một tập đoàn tài chính khổng lồ
trên thế giới trong lĩnh vực ngân hàng thông qua các thương vụ sáp
nhập và mua lại công ty khác. Với đối tác mới này, họ trở thành tập
đoàn lớn thứ hai trong ngành.
House of Morgan nguyên bản giờ đây đã chính thức ngừng hoạt
động. Nhưng tập đoàn thay thế nó được đặt tên là J.P. Morgan
Chase – phản ánh truyền thống đáng tự hào mà tập đoàn mới này
thừa hưởng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét