PROCTER & GAMBLE

Chủ Nhật, 6 tháng 4, 2014
32
PROCTER & GAMBLE
Người khổng lồ của hàng gia dụng




• Người sáng lập:                    William Procter và James Gamble
• Logo:



• Vị trí trong nền kinh tế mỹ: Hạng 25 (Fortune 500 – năm 2007)
• Nét đặc trưng:                      Tạo dựng tên tuổi bằng các loại xà phòng; và
tạo ra loại kịch truyền hình nhiều kỳ  ủy mị
dùng để quảng cáo sản phẩm

• Sản phẩm chính:                  Chất tẩy rửa, giấy, mỹ phẩm, thực phẩm, 
                                                 chăm sóc sức khỏe

• Doanh thu:                            68,22 tỉ đô-la (năm 2007)
• Lợi nhuận:                           
8,68 tỉ đô-la (năm 2007)
• Số nhân viên:                       
110.000 người.
• Đối thủ chính:                     
Johnson & Johnson, Kimberly-Clark, Unilever
• Chủ tịch kiêm CEO:            
Alan G. Lafley
• Trụ sở chính:                       
Cincinnati, Ohio
• Năm thành lập:                   
1837
• Website:                               
www.pg.com


    K ể  từ  khi Andrew Jackson ngồi vào ghế  chủ  tịch tập đoàn,
Procter & Gamble (P&G) bắt đầu có mặt ở khắp mọi nơi. Ngày nay, công
ty sản xuất hàng tiêu dùng hàng đầu thế giới này đang kinh doanh vô
số  các mặt hàng gia dụng và  có  thể  khiến người ta choáng ngợp với
khoảng 300 nhãn hiệu trên 140 quốc gia, sở hữu một con số đáng ngạc
nhiên những nhận hàng nổi tiếng: Tide, Camay, Crest, Scope, Secret,
Clearasil, Folgers, Crisco, Pringles, Pepto-Bismol, Vicks VapoRub, Old
Spice, Oil of Olay, Head & Shoulder, Spic and Span, Pampers, Tampax,
Charmin… Danh sách vẫn còn rất dài... 
       
Một số nhận hàng của P&G
Sáng lập nên hệ 
thống sản xuất xà phòng và  nến này là  hai người nhập cư từ  Đảo quốc
Anh đến vùng Cincinnati. P&G trước đây không chú  tâm nhiều đến các
mặt hàng giấy, thực phẩm, đồ  uống, các sản phẩm chăm sóc sức khỏe
và sắc đẹp mà  tập trung vào các sản phẩm vệ sinh và  chất tẩy rửa kể
từ  sau thành công đầu tiên rộng khắp của mình: xà  phòng Ivory.
Luôn sáng tạo, P&G là công ty đầu tiên giới thiệu sản phẩm thuốc tẩy
tổng hợp, kem đánh răng có flour, tã lót sử dụng một lần. Công ty bước
vào thế kỷ 21 cùng rất nhiều thay đổi tiên tiến và tốt đẹp hơn, thể hiện
qua các loại sản phẩm đã trở nên quá quen thuộc ngày nay. Những sản
  phẩm như túi giặt khô tại nhà, thức ăn vặt không béo, nước rửa trái cây
và  rau quả,... không ngừng được đưa ra khỏi phòng thí nghiệm đến
người tiêu dùng. 

      P&G trở thành công ty số một về những loại hình sản phẩm như
thế trên toàn nước Mỹ, và do thực hiện việc mở rộng ra toàn cầu nên
một nửa tổng doanh thu hiện nay của hãng là  từ  thị trường nước
ngoài. Họ chiếm ưu thế bằng việc tự thiết kế sản phẩm (và tự tổ chức)
mang đặc trưng riêng. Cũng quan trọng không kém là việc họ biết
tận dụng sự có mặt ở khắp mọi nơi cùng những chương trình quảng
cáo thường xuyên được đổi mới để quảng bá thích hợp cho khẩu hiệu
của mình. Cuối cùng P&G không ngừng bỏ ra rất nhiều tiền cho việc
in ấn quảng cáo trong suốt cả thế kỷ qua. Họ bắt đầu cho phát quảng
cáo trên TV chỉ năm tháng sau lần ra mắt đầu tiên của phương tiện
truyền thông này. Họ cũng đã sử dụng radio để quảng bá sản phẩm
rất sớm ngay từ năm 1923. Và mười năm sau đó, công ty cho ra đời
vở kịch truyền hình đầu tiên để quảng cáo cho Oxydol, tiếp theo sau
là  những vở  kịch như Guiding Light và  As the World Turns vẫn còn
phổ biến cho tới hôm nay.

      Nhưng có vẻ như thế kỷ thứ ba này không có vẻ gì là thuận buồm
xuôi gió cho công việc kinh doanh của công ty như hai thế kỷ trước.
Cũng như các nhà  tiên phong trong ngành công nghiệp cũ, họ  đã
chậm chân trong việc tiếp cận Internet. Và khi lợi nhuận không được
như mong đợi, giá thị trường của nó rơi thẳng xuống, chỉ còn 36 tỉ
đô-la vào một ngày đen tối nổ. Các nhà quan sát e rằng tính sáng tạo
và  biểu đồ  tăng trưởng của P&G có  lệ  cuối cùng đã  đi vào ngộ  cụt.
Việc này liệu có đúng chăng?

***
      Giống như vô số những người cùng thời, doanh nghiệp sản xuất
nến William Procter và doanh nghiệp sản xuất xà bông James Gamble
đã cùng nhau tạo ra một doanh nghiệp bền vững một cách hết sức tình
cờ. Procter, từ  Anh, và  Gamble, từ  Ireland, mỗi người tự    mình lùn
đường đi về phía Tây. Họ cùng dừng chân ở trung tâm công nghiệp
 thương mại Cincinnati và  cả  hai đều có  những toan tính cho riêng
mình. Nhưng hai người cuối cùng lại cưới một cặp chị em, và thế là
ưng bố vợ đề nghị hai chàng trai cùng nhau hợp tác làm ăn. Năm 1937,
họ ký một hợp đồng cộng tác trang trọng, mỗi người hùn vào 3.596,47
đô-la để  một công ty chuyên sản xuất xà  phòng và  nến với tên gọi
Procter & Gamble.


      Mặc dù thời buổi kinh tế đang khó khăn và chỉ riêng Cincinnati
cũng đã có hơn mười đối thủ cạnh tranh, nhưng việc kinh doanh của
họ vẫn phát triển rất mạnh mẽ. Năm 1859, công ty có 80 nhân công
và ghi nhận doanh thu lần đầu tiên lên đến con số hàng triệu. Để đáp
ứng nhu cầu ngày càng gia tăng, họ  tiến hành xây thêm một nhà
máy, bất kể cuộc nội chiến đang đến gần. Việc này đã giúp họ kiếm
được một khoản kha khá  khi hoàn thành hợp đồng cung cấp cho
quân đội hai loại sản phẩm chính của hãng. P&G tiếp tục kiếm lời
nhiều hơn nữa khi những người lính đem theo ấn tượng tốt về nhãn
hiệu này trở về nhà sau chiến tranh.

      James Norris Gamble, một nhà hóa học được đào tạo và là con trai
của một trong hai nhà sáng lập, phát triển một loại xà phòng trắng
rẻ tiền mà cuối cùng trở thành sản phẩm đóng dấu thành công lớn
đầu tiên cho hãng. Harley Procter, con trai của một nhà sáng lập kia,
đặt tên cho loại xà phòng đó là “Ivory”(1) khi ông tình cờ bắt gặp từ
này trong một đoạn kinh thánh, dường như từ này đã tóm tắt đầy đủ
toàn bộ chất lượng của sản phẩm. Sau đó ông thuyết phục người đồng
sự của mình bỏ ra 11.000 đô-la – một khoản tiền khổng lồ lúc bấy giờ
– để quảng cáo về sự nguyên chất và tính nổi bật của sản phẩm trên
khắp nước Mỹ. Doanh số của P&G một lần nữa lại tăng vọt.

      Không giống bất cứ  ai (ngoại trừ  một vài doanh nghiệp ngày
nay), công ty còn nhận ra rằng phúc lợi của hãng gắn liền với phúc
lợi của lực lượng lao động. Theo quan điểm đó, năm 1885, họ bắt đầu
cho công nhân của mình nghỉ chiều thứ  bẫy có  hưởng lương. Năm
1886, họ mở thêm nhà máy Ivorydale áp dụng những thành tựu khoa
 học kỹ  thuật tiến bộ  nhất để  nâng cao chất lượng môi trường làm
việc. Năm 1887, họ  đưa ra một kế  hoạch phân chia lợi nhuận. Nói
chung, công ty đã trở thành một trong những nơi đầu tiên cung cấp
cho nhân viên của mình những chương trình bảo hiểm toàn diện.
Cuối thế kỷ 19, P&G kinh doanh 30 loại xà phòng khác nhau. Hai
người cộng sự  hợp tác chặt chẽ  để  cùng nhau phát triển tài chính
mạnh hơn. Mặc dù sự ra đời của bóng đèn trong thời gian sau đó đẩy
việc kinh doanh nến đến ngày tận số, P&G đã lớn mạnh nhờ việc mở
ra các danh mục hàng hóa mới. Một văn phòng nghiên cứu mới mở
đã phát triển các loại sản phẩm như Dreft, thuốc tẩy rửa tổng hợp đầu
tiên, và Crisco, loại dầu thực vật đầu tiên. Những tờ quảng cáo in màu
dùng để quảng cáo xà phòng, và chương trình nấu ăn toàn quốc phát
trên radio được sử dụng để quảng cáo dầu ăn. Để duy trì đà phát triển
này, P&G đã thành lập một trong những phòng nghiên cứu thị trường
đầu tiên trong giới kinh doanh.

      Giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, P&G phát triển thịnh vượng
như bất cứ công ty nào của Mỹ. Họ thường xuyên cho ra đời những
sản phẩm mới đánh trúng tâm lý người tiêu dùng, mở thêm một công
ty con ở Anh, và phát triển sang châu AÁ. Họ tài trợ cho loạt chương
trình radio đầu tiên của mình (Ma Perkins), bước chân vào lĩnh vực
sản phẩm chăm sóc tốc với loại dầu gội đầu tiên và phát quảng cáo
trong giải bống chây lớn đầu tiên được phát sống. Vào khoảng thời
gian kỷ niệm 100 năm thành lập, doanh thu hàng năm của họ đạt tới
con số 230 triệu đô-la.

       Thời kỳ  kế  tiếp được ghi dấu bằng nhiều mốc tăng trưởng ấn
tượng hơn. Phần lớn là do thành công của bột giặt Tide ra mắt năm
1946. Trong vòng 4 năm, nó trở thành sản phẩm bán chạy nhất trong
danh mục sản phẩm không ngừng dài ra của hãng. Dầu gội đầu Prell,
kem đánh răng Crest, bột làm bánh pha sẵn Duncan Hines, cả giấy
vệ sinh Charmin, khăn lửng, tã lót cũng được đưa thêm vào danh mục
sản phẩm trong thời gian đó. Năm 1961, P&G thật sự gây chấn động
giới tiêu dùng với Pampers, loại tã  lót tiện dụng dùng một lần đầu
 tiên trên thế giới. Trong vòng vài năm sau đó, danh sách sản phẩm
hiện có ngày càng mạnh lên nhờ có cà phê Folgers, việc phát minh
ra giường sợi mềm Bounce, và nhiều loại dược phẩm vốn được yêu
thích. P&G cũng bắt đầu xây những nhà máy sản xuất mới ở Mexico,
châu Âu, và Nhật Bản. 
Những sản phẩm đã tạo nên “tên tuổi” P&G

      Năm 1980, khi gần tới kỷ niệm lần thứ  150, công ty đã có  chi nhánh trên
23 quốc gia với doanh thu hàng năm gần 11 tỉ đô-la. Mỹ phẩm và  nước
hoa tiếp tục gia nhập danh mục hàng hóa của họ sau vụ mua về hai hãng
Max Factor và Noxell’s Cover Girl, Noxzema cùng hệ thống Clarion.
Mảng sản phẩm chăm sóc sức khỏe cũng được mở rộng khi công ty
thu mua Norwich Eaton Pharmaceuticals và Richardson-Vicks. Việc
kinh doanh ở nước ngoài cũng phát triển ở Đông Âu và Trung Quốc.
Năm 1993, khi doanh thu của P&G lên tới 30 tỉ đô-la thì hơn 50%
trong đó đến từ thị trường ngoài nước Mỹ.

      Mặc cho những chiến lược mua lại công ty khác không ngừng
được đẩy mạnh (như Tambrands và sản phẩm dẫn đầu của nó, tam-
pon Tampax) cùng những sản phẩm mới sáng tạo (như loại snack
mặn chiên bằng dầu ăn không béo, không calorie Olean), gần 17 thập
niên thành công không ngừng đã bị chặn lại vào ngày 7/3/2000, khi
cổ phiếu của P&G mất giá 31% chỉ trong một ngày.

***
     Tin này đã gây chấn động cả Wall Street: chỉ trong vòng vài phút
sau khi Sàn giao dịch chứng khoán New York rung chuông, cổ phiếu
 của Procter & Gamble đã rớt giá xuống còn từ 27,0625 đến 60,357 đô-
la mỗi cổ phiếu – so với con số 117 đô-la chỉ 6 tháng trước đó. 
Kể  từ  khi cổ  phiếu của Philip Morris trượt 23% năm 1993 thị
chưa có  công ty nào lại sụp đổ  ngoạn mục và  dứt khoát như thế.
Nhiều người đổ lỗi cho chủ tịch hội đồng quản trị mới, Durk Jager,
người dường như mú quá sức mình khi cố gắng thay đổi nền văn hóa
thiển cận của công ty bằng việc giới thiệu một loạt sản phẩm mới và
tiến hành thu mua nhiều hơn.

     P&G còn mắc một lỗi khác là  chậm chân trong việc tiếp cận
Internet, cũng như không kịp thời móc nối với những tập đoàn bán
lẻ lớn để phát triển các nhãn hiệu bột giặt độc quyền nổi tiếng. Một
số nhà phân tích và đầu tư bày tỏ sự lo lắng cho tương lai của công
ty, và  khi doanh thu thấp lại tiếp tục diễn ra trong cả  4 quý  năm
2000, Jager bất ngờ tuyên bố nghỉ hưu có hiệu lực từ 1/7. Thay thế
Jager là Alan Lafley, giám đốc bộ phận chuyên về sản phẩm chăm sóc
sắc đẹp của P&G tại khu vực Bắc Mỹ. John Pepper, người điều hành
công ty trước Jager, nhậm chức chủ tịch.

    Với sức mạnh và lịch sử của P&G các nhà quan sát cho rằng vẫn
còn quá sớm để loại bỏ tên tuổi tập đoàn hàng đầu này ra khỏi cuộc
chơi. Họ nhấn mạnh, phục hồi là việc cần làm ngay và 180 năm kinh
nghiệm của P&G là không thể xem thường.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét