THYSSEN KRUPP AG

Thứ Tư, 24 tháng 12, 2014
31
THYSSEN KRUPP AG
“Khẩu đại pháo của nước Đức”


 • Người sáng lập:          Friedrich Krupp 
• Logo:


• Nét đặc trưng:             Hỗ trợ tài chính và quân sự cho chế độ 
                                        Quốc xã trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới II
                                         
• Sản phẩm chính:       Luyện kim, sản xuất thiết bị công nghiệp nặng,
phụ tùng xe hơi.

• Doanh thu:                  51 tỉ Euro (khoảng 75 tỉ đô la – năm 2007)
• Số nhân viên:              
190.000 người (năm 2007)
• Đối thủ chính:             
Mannesmann AG, Robert Bosch, Usinor
• Chủ tịch kiêm CEO    
Thyssen Krupp
Automotive:                   
Gerhard Cromme
• Chủ tịch kiêm CEO
Thyssen Krupp Steel:    Ekkehard Schulz
• Trụ sở chính:              Dusseldorf, Đức
• Năm thành lập:           
1810
• Website:                       
www.thyssenkrupp.com/eng/index.html


 Có lệ bất ngờ nhất trong số 50 công ty đã làm thay đổi sâu sắc
thế giới chúng ta là Thyssen Krupp của Đức, đất nước của đại thi hào
Goeth, của nhà tư tưởng, kinh tế-chính trị  Mac-xit lỗi lạc Karl Marx  và
cuãa… nhà độc tài phát xít Adolph Hitler.

    Không như những công ty khác trong quyển sách này, Thyssen
Krupp, một công ty gia đình, được xem là đã góp phần thay đổi thế
giới vì những “đóng góp” quan trọng cho Đức quốc xã  trong cuộc
Chiến tranh Thế giới II. Trong vòng hơn một thế kỷ, nhà máy thép và
đạn dược Krupp đã sản xuất vô số vũ khí cho nước Đức đến nỗi nó
được mệnh danh là “Khẩu đại pháo của nước Đức”. Trong những năm
1930 – sau khi bổ  sung vào danh mục đầu tư của mình các xưởng
đóng tàu, nhà máy, mỏ sắt và than đá, cùng các hạm đội tàu hơi nước
– họ đã hỗ trợ tài chính cho Hitler vươn lên nắm quyền. Để cung cấp
khí tài quân sự  theo nhu cầu ngày càng tăng của Hitler trong Thế
chiến II, họ đã sử dụng cả lao động tù nhân từ các trại tập trung gần
nhà máy của họ.

      Cho đến trước khi Hitler bị đánh bại, Krupp kinh doanh thành
công một cách lạ thường với hàng trăm văn phòng ở Đức và hơn mười
chi nhánh trên khắp châu Âu, trong đó  có  cả  các khách sạn, ngân
hàng và nhà máy công nghiệp. Trong chiến tranh, các nhà máy của
họ được trang bị lại để sản xuất tàu ngầm, xe tải, đầu máy, tàu chiến
cùng với những khẩu pháo. Khi Tòa án Quân sự Quốc tế kết án Krupp
tội đồng loäa với Hitler thị thời kỳ huy hoàng của họ mới thật sự kết
thúc. 

       Trong phiên tòa xét xử Nuremberg năm 1948, toàn bộ tài sản của
nhà Krupp bị tịch thu và một thành viên trong dòng họ bị kết án 12
năm tù. Tuy nhiên, ba năm sau, người này được ân xá và toàn bộ tài
sản của gia đình cũng được trả lại. Sau đó, họ thực hiện đa dạng hóa
kinh doanh bằng cách chuyển hướng sang lĩnh vực máy móc hạng
nặng, thiết bị vận chuyển và nhà máy công nghiệp. Và một lần nữa,
 dòng họ này đã biến Krupp thành một trong những công ty lớn nhất
nước Đức. 

       Nhưng mô hình một công ty gia đình đã không còn được duy trì.
Người thừa kế cuối cùng đã từ bỏ quyền kinh doanh của mình vào
những năm 1960, và Krupp trở thành một công ty cổ phần. Sau khi
thu mua một đối thủ sản xuất thép của Đức vào thập niên 1990, họ
hợp nhất với một công ty khác và  trở  thành Thyssen Krupp AG,
chuyên ngành chế  tạo kim loại, sản xuất động cơ và  máy móc, kỹ
thuật cơ khí, và những dịch vụ khác. Hiện nay họ là công ty lớn thứ
5 nước Đức và  là  một trong những nhà  sản xuất thép lớn nhất thế
giới. Tuy nhiên, ảnh hưởng cơ bản của công ty – đáng buồn là rất tiêu
cực – gắn liền với thời gian khoảng 125 năm đầu tiên trong lịch sử
của họ, trong đó có những năm tháng họ đã đi cùng và kết thúc với
Hitler và chế độ phát-xít của ông ta.

***
       Sinh ra trong một gia đình có 200 năm làm nghề luyện thép và
chế tạo nhiều loại vũ khí khác nhau, không có gì ngạc nhiên khi cậu
bé Friedrich Krupp đắm chìm vào ngành kinh doanh này ngay khi
cậu nhận ra mục đích cuộc đời mình. Vào năm 1810, ở tuổi 23, cậu
mở một nhà máy riêng và bắt đầu sản xuất loại thép đúc sẵn của Anh
và các sản phẩm ăn theo. Friedrich thành công ngay từ đầu và đã xây
một nhà  máy lớn hơn vào năm 1818 để  phục vụ  danh sách khách
hàng ngày càng mở rộng của mình. Tuy nhiên, chỉ vài năm sau khi
Friedrich mất, vài tháng sau sinh nhật thứ 39 của mình, công việc
kinh doanh đầy hứa hẹn bỗng dừng lại.

      Cậu con trai 14 tuổi của Friedrich, Alfred, từng theo dõi công việc
rất kỹ càng, đã tiếp tục đảm trách việc kinh doanh dù còn nhỏ tuổi.
Là  một nhà  sáng tạo bẩm sinh và  tích cực, cậu nhanh chóng giới
thiệu với cộng đồng châu Âu hàng loạt những phương pháp luyện
kim mới, như luyện thép lô mở. Cậu cũng bước vào những lĩnh vực
mới, như sản xuất loại thép cuộn dùng để đúc tiền, và chế tạo những
loại máy mới, bao gồm cả một thiết bị dùng để làm dao muỗng. Vũ
 khí vẫn là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt. Năm 1851, Alfred gửi
một khẩu đại pháo bằng thép đúc sẵn nặng hơn 2 tấn tới Luân Đôn
cho cuộc Đại Triển lãm và gây được tiếng vang lớn, đem lại cho Alfred
biệt danh: “Vua Đại bác”(1)

      Alfred đã đưa việc kinh doanh lên một tầm cao ở nhiều lĩnh vực
mà  cha ông không bao giờ  ngờ  tới. Sự  ra đời của đường sắt đã  mở
thêm một lối kinh doanh cho công ty của Alfred, bắt đầu bằng việc
sản xuất thanh ray và lò xo tàu hỏa rồi sau đó trở thành công ty đầu
tiên sản xuất bản lề đường sắt bằng thép không mối hàn. Tuy nhiên,
công ty của Alfred lại được biết đến nhiều hơn vì sản xuất và buôn
bán vũ khí. Đầu tiên họ bán vũ khí cho Ai Cập, Bó, và Nga trước khi
ghi dấu ấn bằng “cuộc phong tỏa bằng súng” khổng lồ  trong cuộc
chiến Pháp - Phổ vào những năm 1870-1971. Dù gia đình Krupp dính
dáng với Đức Quốc xã sau này, nhưng trớ trêu thay, Krupp lại là một
trong các nhà tư bản công nghiệp đầu tiên trên thế giới quan tâm đến
hoàn cảnh của công nhân. Từ năm 1836, Alfred đã xây dựng một quỹ
trợ cấp bao gồm quỹ bệnh tật và tang chế, quỹ lương hưu, đồng thời
xây dựng nhà ở, bệnh viện, trường học, nhà thờ cho nhân viên trong
công ty. Tất cả những việc này đều được Krupp coi trọng, và cho tới
khi Alfred mất năm 1887, tổng số nhân công của Krupp đã tăng từ 7
lên 21.000 người.

      Friedrich Alfred Krupp, con trai của Alfred, tiếp tục điều hành
công ty đi tiếp con đường quen thuộc. Sự lớn mạnh của Hải quân Đức
và những nhu cầu đa dạng của nó đã góp phần khổng lồ vào việc phát
triển tiếp theo của công ty. Krupp bắt đầu thu mua những xưởng
đóng tàu ở  Kiel năm 1902, cùng năm mất của Friedrich ở  tuổi 48.
Công việc quản lý công ty, lúc này đã có hơn 40.000 nhân viên, được
giao cho con gái cả Bertha. Bertha liên kết chặt chẽ các bộ phận lại
vào năm sau và đổi tên công ty thành Fried. Krupp Grusonwerk AG.
Không lâu sau, Bertha cưới một nhà ngoại giao người Phổ tên Gustav
von Bohlen und Halbach – người nhanh chóng đảm đương công việc
điều hành cũng như nhận lấy họ Krupp của gia đình cô. Giờ đây với
 tên Gustav Krupp von Bolhen, ông ta thúc đẩy việc sản xuất vũ khí
mạnh hơn bao giờ hết khi Chiến tranh Thế giới lần I diễn ra. Krupp
nhận được sự  cổ  vũ  của thế  giới khi khẩu pháo khổng lồ  của nó
(mệnh danh là Big Berthas theo tên người nữ chủ gia đình) có thể tấn
công Paris từ khoảng cách 75 dặm. Khi chiến tranh kết thúc, việc sản
xuất vũ khí bị cấm, và Krupp bị buộc phải cân bằng lại các nhà máy
cũng như lực lượng nhân công của mình. 

      Tuy nhiên, Gustav Krupp vẫn có phương cách khác. Những năm
1930, Gustav nổi tiếng vì giúp đỡ Đảng Quốc xã nhiều hơn là do khả
năng sản xuất phi thường của mình. Krupp làm việc không mệt mỗi
để xoay xở tìm sự hỗ trợ từ những nhà tư bản công nghiệp khác theo
khuynh hướng này, và ông ta công khai ủng hộ việc nước Đức rút ra
khỏi Hội nghị giải trừ quân bị và liên minh các nước, ủng hộ việc xâm
chiếm Áo, Phần Lan và những vùng đất khác. Năm 1933, ông ta hỗ
trợ tài chính cho cuộc bầu cử giành quyền lực của Hitler, và sau đó
bắt đầu cung cấp khí tài giúp Hitler củng cố  quyền lực. Khi Chiến
tranh Thế giới II lan rộng, công ty do Gustav điều hành bắt đầu thực
hiện một chính sách tân nhẫn là  lợi dụng lao động từ  các trại tập
trung ở các vùng lên cận để sản xuất các phương tiện chiến tranh đáp
ứng những nhu cầu ngày càng tăng của Hitler.

Siêu pháo Schwerer Gustav ,1941 chế tạo bởi Friedrich Krupp A.G

      Khi chiến tranh lên tới đỉnh cao, Gustav được con trai Alfried của
mình thay thế  chức vụ  đứng đầu tập đoàn. Cậu Krupp đảm nhận
quản lý tài sản của gia đình lúc bấy giờ, bao gồm quyền sở hữu toàn
bộ hoặc một phần của hơn 250 công ty ở Đức và khoảng hơn 60 công
ty con ở nước ngoài. Nhưng để thỏa mãn ông chủ độc tài Quốc xã của
mình, Alfried lại một lần nữa hướng Krupp tập trung vào sản xuất vũ
khí và đạn dược. Ông ta thực hiện việc này bằng cách sử dụng nhiều
hơn những tù nhân chiến tranh người Pháp và Nga cùng những lao
động nô dịch từ hầu hết các quốc qia mà Đức chiếm đóng. Họ được
đưa tới các nhà máy của Krupp ở Essen bằng những chiếc xe bò chật
chội, che bằng những bao tải, phải ở  trong những nhà  kho không
được sưởi, thường xuyên bị đánh đập. Chỉ trong tháng 9 năm 1944,
theo tài liệu sau này trước tòa, gần 75.000 tù nhân đã phải làm việc
 gần như khổ sai cho Krupp. Sức lao động của họ biến thành lợi nhuận
cho công ty, và Krupp thu lợi nhiều hơn bao giờ hết. Tổng giá trị tài
sản của họ tăng hơn 3 lần dưới thời Hitler.

       Sau khi chiến tranh kết thúc, Tòa án Chiến tranh Quốc tế kết án
Gustav Krupp – cùng với 23 nhà lãnh đạo chính phủ và quân sự khác
– vì những tội ác khác nhau. Cáo buộc nêu rằng nhà Krupp “là nguồn
cung cấp chính cho chiến tranh Đức”, “là tiêu điểm, là biểu tuúång, và
là người hưởng lợi thuộc thế lực tàn ác nhất đe dọa nền hòa bình của
châu Âu”. Tuy nhiên, bản án này không thể áp dụng cho Gustav vì
tuổi tác và  tình trạng sức khỏe, Alfried thay ông ta chịu án. Năm
1948, Alfried thụ án 12 năm tù giam và tất cả tài sản cũng bị tịch thu.

***
      Gustav Krupp mất năm 1950, một năm sau đó Alfried được ân xá.
Toàn bộ tài sản được hoàn trả vì không ai chịu mua lại. Alfried lại một
lần nữa điều khiển việc kinh doanh. Dưới quyền quản lý của Alfried,
nhiều ngành kinh doanh mới được bổ  sung, trở  thành một trong
những xí nghiệp thương mại lớn nhất Tây Đức, và đạt lợi nhuận khá
cao. Tuy nhiên năm 1976, Alfried mất và người con trai duy nhất của
ông ta – Arndt von Bohlen und Halbach – từ chối quyền điều hành.
Một năm sau đó, quyền sở hữu công ty đã được chuyển toàn bộ cho
cổ  đông bên ngoài. Sau gần 150 năm, Krupp đã  không còn là  một
công ty gia đình nữa.
Headquarters , Essen

       Sau khi thu mua một hãng sản xuất thép cạnh tranh của Đức
năm 1992, công ty đổi tên thành Fried. Krupp AG Hoesch-Krupp.
Năm 1999 họ sáp nhập với một đối thủ khác và đổi tên thành như
hiện nay (Thyssen Krupp) và hoạt động ở năm lĩnh vực trên toàn cầu:
động cơ (bao gồm thân xe, hệ thống giảm xóc và hệ thống truyền lực),
công nghiệp (bao gồm thang máy, các dụng cụ cắt kim loại, đóng tàu
và nhiều thứ khác), kỹ thuật (công nghệ hóa, và nhà máy xi-măng),
nguyên liệu và dịch vụ (dịch vụ xây dựng công nghiệp và quản lý dự
án), và sản xuất thép.




Read more ...

MICROSOFT

Thứ Ba, 8 tháng 4, 2014
1
MICROSOFT

Ngôi nhà không thể thiếu cửa sổ, 

cuộc sống không thể thiếu… Windows!




   Dù muốn dù không, vô tình hay cố ý, trực tiếp hay gián tiếp, bạn
đang sử dụng sản phẩm và dịch vụ của Microsoft. Và, bạn cũng không

thể  phủ  nhận điều này: Microsoft là  công ty quyền lực nhất thế  giới

hiện nay. 

      Được thành lập cách đây hơn 30 năm bởi hai người bạn thân từ

thời niên thiếu, tập đoàn này đang ngày càng lớn mạnh cùng với sự

phát triển của máy tính cá nhân. Microsoft không phải là công ty lớn

nhất, cũng không phải là công ty có giá trị nhất thế giới. Nó không

thật sự xuất sắc về mặt cải tiến, phát triển công nghệ hay thiết lập

được mối quan hệ tốt đẹp với nhân viên. Nó không hấp dẫn như một

trang web hay, lôi cuốn như một thương vụ thể thao đình đám, hay

thu hút như một trò giải trí thời thượng. Nhưng, nó đã sản xuất ra

một phần mềm vận hành đến 90% số máy tính cá nhân trên toàn thế

giới – và điều này đã mang đến cho nó một vị trí thống trị tuyệt đối

mà chưa có công ty nào, ở bất kỳ lĩnh vực nào, có thể bì kịp.

                                          ***

      Câu chuyện được bắt đầu vào năm 1975, khi Bill Gates và  Paul

Allen chuyển đổi ngôn ngữ  lập trình của loại máy tính lớn đời đầu

thành một loại ngôn ngữ có thể được sử dụng trên chiếc máy tính cá

nhân đầu tiên. Công ty mà họ đã đặt tên bằng cách ghép hai từ đầu của

“microcomputers”(1)và  “software”(2) đã  thành công ngoài sức tưởng

tượng. Lợi nhuận năm đầu tiên chỉ là 16.000 đô-la, nhưng đến năm thứ

năm nhảy vọt lên đến 7,5 triệu đô-la và mở rộng kinh doanh ra toàn

cầu, thiết lập quan hệ với tất cả các nhà sản xuất máy vi tính hàng đầu

thế giới, mở rộng các dòng sản phẩm một cách mạnh mẽ, và đã thu về

gần 150 triệu đô-la lợi nhuận trong năm 1985. Sau đó, Microsoft được

cổ phần hóa trong khi vẫn duy trì mức lợi nhuận đáng kinh ngạc 25%

trên doanh thu bán hàng. Bill Gates “đoạt” danh hiệu tỉ phú trẻ tuổi

nhất nước Mỹ  khi đó và trở thành người giàu nhất thế giới sau này.  
   
(1) Microcomputer - Máy vi tính. 

(2) Software - Phần mềm.

Bill Gates và Paul Allen, ngày đó và bây giờ
   
 Ngoài những thành quả to lớn kể trên, Microsoft cũng nhận được
vô số  lời khen tiếng chù khác nhau. Họ  bị tố  cáo là  đã  chiếm đoạt
những cải tiến công nghệ được phát triển bởi những công ty khác và
biến những thành tựu chất xám này thành tài sản thu lợi riêng; họ đã
lạm dụng quyền lực vô hạn của mình để  chèn ép các đối thủ  cạnh
tranh và buộc người tiêu dùng phải mua những bản nâng cấp phần
mềm với giá cả độc quyền. Tuy nhiên, họ cũng đã bỏ lỡ cơ hội khi cơn
sốt Internet bùng nổ để rồi sau đó phải vất vả chạy đua với các đối thủ
cạnh tranh trong lĩnh vực này. 

    Vào giữa năm 1998, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ và một liên minh gồm
20 đại biểu liên bang đã  tố  cáo Microsoft vi phạm các điều luật
chống độc quyền – một cáo buộc dẫn đến việc hoạt động của họ phải
bị tách ra làm hai mảng. Dù vậy, trong khi chờ phán quyết của tòa
án được thi hành thị Microsoft đã kịp phục hồi để lấy lại quyền lực
đã mất.

    Paul Allen đã thấy trước tương lai khi ông nhìn thấy chiếc máy
tính MITS Altair trên trang bìa tạp chí Popular Mechanics vào năm
1975. Allen, lúc đó đang làm việc ở Honeywell, ngay lập tức nhận ra
rằng thiết bị mang tính tiên phong này sẽ thay đổi hoàn toàn cách sử
dụng máy vi tính. Allen đưa tờ  tạp chí cho người bạn đồng hương
Seattle Bill Gates, khi đó  đang là  sinh viên năm thứ  hai Đại học
Harvard. Gates đã viết chương trình máy tính đầu tiên của mình và
ở Albuquerque và ký từ đó bắt đầu sự nghiệp kinh doanh máy tính khi 
chưa đến tuổi 20.

    Thích thú với viễn cảnh thành công, Gates cùng với Allen lao vào làm
việc suốt ngày đêm để chuyển hóa thứ ngôn ngữ lập trình cố tên gọi
là BASIC, vốn đang được dùng trên những chiếc máy tính lớn, thành
một ngôn ngữ mà những chiếc máy tính cá nhân có thể hiểu được.
Khi cả hai hoàn tất công việc, Allen đáp máy bay đến trụ sở của
MITS ở Albuquerque để trình bày những ý tưởng và thành quả lao
động của họ. Các nhà lãnh đạo của MITS đã ấn tượng đến mức giao
ngay cho Allen một vị trí trong công ty. Ông cũng bắt đầu phát triển
hiệu quả ngôn ngữ BASIC cho dòng máy Altair, và điều này đã thu
hút sự chú ý của những người ủng hộ dòng máy này - họ chờ đợi một
sự cải tiến như vậy từ quá lâu rồi. Gates bắt đầu say mê và bỏ học ở
Harvard để theo Allen đến New Mexico. Ở đó, cả hai lập ra một liên
doanh không chính thức với tên gọi Micro-soft, dấu gạch nối để nhấn
mạnh nguồn gốc của công ty, và bắt đầu phát triển ý tưởng của mình.
Năm đầu tiên, họ thu được 16.005 đô-la lợi nhuận.

      Hai người mở nhiều văn phòng  hợp đồng
với vài công ty lớn, trong số đó có General Electric và NCR(1). Cả hai
công ty này đều bị thu hút bởi tiếng vang của dòng máy Altair. Allen
và Gates bắt đầu tuyển nhân viên, và vào năm 1977 họ chính thức
khẳng định sự tồn tại của công ty. Gates cũng bắt đầu lên tiếng phản
đối việc vi phạm bản quyền đối với sản phẩm của Microsoft, và điều
này đã  làm mất lòng rất nhiều người vì họ  cho rằng dạng chương
trình máy tính như thế phải được cung cấp miễn phí. Đây dụ nhiên
không phải là  lần cuối cùng Gates và  công ty bị buộc tội áp đặt ý
muốn của mình lên phần còn lại của thế giới máy tính.
Nhiều giấy phép sử  dụng ngôn ngữ  BASIC nhanh chóng được
thương thảo nhằm phục vụ  cho các dòng máy vừa mới ra đời như
Commodore PET và TRS-80 (cùng với sự vươn lên mạnh mẽ của một
công ty ở  Bắc California có  tên gọi Apple). Vào cuối năm 1977
Microsoft bắt đầu phát triển một ngôn ngữ  máy tính mới tên là 
FORTRAN, và bắt đầu kế hoạch chiến lược bằng việc bán lẻ ngôn ngữ
Lập  trình BASIC. Khi lợi nhuận đạt mức 400.000 đô-la, Gates và  Allen 
quyết định dời trụ sở đến Bellevue, Washington. Sau khi thỏa thuận
được với một đối tác Nhật Bản để  quảng bá  BASIC ra nước ngoài,  hoạt 
động kinh doanh của Microsoft bắt đầu tăng tốc. 

(1) NCR là một công ty cung cấp giải pháp công nghệ toàn cầu nằm trong Danh sách Fortune 500.
Những nhân viên đầu tiên của Microsoft năm 1978, 
Bill Gates ở hàng đầu, bịa trái


Sau đó, ngay trước lễ kỷ niệm thành lập công ty lần thứ năm, Microsoft ký
một hợp đồng sơ bộ với IBM để phát triển một hệ điều hành dành riêng cho
dòng máy tính cá nhân mà IBM sắp cho ra đời. Microsoft – giờ đây đã
có 40 nhân viên, trong đó có một thanh niên tên là Steve Ballmer vừa
chuyển đến từ  Procter & Gamble – hiện không có  một dự  án hay ý
tưởng khả thi nào trong tay, vì thế Gates đã mua lại một chương trình
gọi là QDOS(1)từ công ty Sản phẩm máy tính Seattle với giá 50.000 đô-
la. Công ty của Gates sau đó chỉnh sửa lại chương trình này để đáp
ứng nhu cầu của IBM, rồi đổi tên nó thành MS-DOS(2), và phần mềm
này đã thích ứng một cách tuyệt vời với chiếc máy tính cá nhân thế hệ
mới của IBM. Lượng sản phẩm bán ra cao đến chóng mặt ngay khi vừa
mới trình làng vào năm 1981. Lợi nhuận đạt đến con số 16 triệu đô-la
và số nhân viên của công ty tăng lên gấp ba lần.

      Mười sáu tháng sau khi phiên bản đầu tiên xuất hiện, công ty đã
cấp giấy phép sử dụng MS-DOS cho 50 nhà sản xuất phần cứng khác
nhau, và Microsoft đã thật sự cất cánh. Công ty mở thêm nhiều văn
phòng ở châu Âu, đồng thời sử dụng lợi nhuận thu được để sản xuất
một loại bảng tính điện tử và bước chân vào thị trường kinh doanh
phần mềm đang ngày một phát triển. Người đồng sáng lập Paul Allen
rời khỏi công ty vào năm 1983 vì lý do sức khỏe, nhưng những bước
đi tiên phong mà ông và Bill Gates đã xác lập thị vẫn được phát huy.
Năm kỷ niệm thành lập lần thứ 10 là thời kỳ cực thịnh của Microsoft,
khi họ  cho xuất xưởng phiên bản đầu tiên của một hệ  điều hành
mang tính đồ họa có tên là Windows. Ban đầu doanh số của sản phẩm
này khá chậm, một phần vũ lượng phần mềm tương thích với nó chưa
được phát triển, nhưng nguyên nhân chủ yếu là hệ điều hành này đã
vấp phải sự chỉ trích khá nặng nề. Những người hoài nghi đã chỉ ra
rằng hệ  điều hành Macintosh của Apple đã  làm được mọi thứ
Windows làm, và thậm chí còn làm tốt hơn.

       Microsoft đáp trả  những lời chỉ trích bằng cách cổ  phần hóa và
chuyển đến một trụ sở mới gồm bốn tòa nhà ở Redmond, Washington
vào năm 1986. Microsoft tiếp tục cải thiện hệ  điều hành Windows
đồng thời tìm kiếm lợi nhuận trong một số lĩnh vực khác khiến cho
lợi nhuận hàng năm nhanh chóng đạt đến con số 150 triệu đô-la và
tổng số nhân viên lên đến 1.000 người. Gates, cổ đông lớn nhất của
công ty, lúc này đã trở thành tỉ phú ở tuổi 31. Nhưng bên cạnh sự giàu
có và sức mạnh ngày càng tăng lên thị những lời cáo buộc, phản đối
chống lại đế chế non trẻ này cũng xuất hiện ngày càng nhiều. Những
công ty cạnh tranh thường buộc tội Microsoft là đã làm giàu bất chính
từ mỗi chiếc máy tính cá nhân được bán ra trên toàn thế giới. Dù vậy,
những người ủng hộ cũng tăng lên đáng kể khi Microsoft mở rộng tầm
ảnh hưởng. Đó là những người luôn hoan nghênh nhiệt liệt những sản
phẩm làm cho máy tính của họ trở nên hiệu quả và đạt năng suất cao
hơn.

       Những năm cuối thập niên 80, người ta tiếp tục chứng kiến nhiều
bước tiến khác của Microsoft. Họ giới thiệu một “gói” ứng dụng có tên
là Office, những sản phẩm được bán dưới dạng đĩa CD như một bộ
sưu tập gọi là Bookshelf. Với lượng sản phẩm chiếm hơn một nửa thị
phần trên toàn thế  giới, Microsoft đã  trở  thành công ty phát triển
phần mềm lớn nhất và  Apple đã  kiện Microsoft vò… vi phạm bản
quyền. Tuy thế, những người đứng đầu công ty ở Redmond có vẻ như
không quan tâm lắm đến lời cáo buộc này và tiếp tục mở rộng trụ sở
để có thể chứa thêm nhiều nhân viên hơn nữa.



       Bước ngoặt lớn nhất xảy ra vào năm 1990 khi phiên bản mới nhất
là Windows 3.0 được ra mắt. Microsoft tin rằng sản phẩm này sẽ vĩnh

viễn làm thay đổi thế giới máy tính cá nhân, và đã khởi xướng một

chiến dịch tiếp thị với chi phí lên đến 100 triệu đô-la. Những nỗ lực

này đã được đền đáp xứng đáng khi Windows 3.0 đạt con số bán ra

100.000 bản chỉ trong vòng ba tuần lễ, biến Microsoft thành công ty

đầu tiên trong lĩnh vực máy tính có doanh thu vượt quá một tỉ đô-la.

Cột mốc quan trọng này được thiết lập vào lúc Microsoft tổ chức ăn

mừng sinh nhật thứ  15. Tuy nhiên, không lâu sau đó, Tòa án Liên

bang tuyên bố rằng một cuộc điều tra đang được tiến hành vì nghi

ngờ Microsoft vi phạm luật chống độc quyền.

Windows 3.0 (1990) và Windows 3.1 (1993)


       Những thành công to lớn của Microsoft, và những chướng ngại

vật cũng to lớn không kém, tiếp tục tăng lên theo cấp số nhân trong

suốt thập niên 90. Hàng triệu người trên thế giới đã đăng ký sử dụng

Windows cho máy tính cá nhân cũng như cho mục đích kinh doanh

khi các phiên bản và phần mềm mới của hệ điều hành này liên tục

xuất hiện. Rồi vụ tranh chấp kéo dài 63 tháng với hãng Apple cuối

cùng cũng kết thúc với phần có  lợi nghiêng về  phía Microsoft. Dù

vậy, những đối thủ  cạnh tranh vẫn không ngừng gây khó  dễ  hông

ngăn cản bước tiến của Microsoft.


     Công ty đánh dấu sinh nhật lần thứ 20 của mình bằng việc ra mắt

phiên bản Windows 95. Với phiên bản này, cuối cùng hệ điều hành

của Microsoft cũng có thể sánh ngang với hệ điều hành nổi tiếng Mac

của Apple. Hơn 4 triệu bản đã được bán hết chỉ trong vòng 4 ngày.

Microsoft bán Windows kèm theo trình duyệt Internet Explorer như

một nỗ lực muộn mâng nhằm tấn công đối thủ cạnh tranh Netscape

trên thương trường đang ngày một nóng lên của thế giới ảo. Họ cũng

đã hình thành một dịch vụ trực tuyến cố tên gọi Microsoft Network để

tranh thị phần với tập đoàn hàng đầu trong lĩnh vực này là America

Online. Gates lại tiếp tục nỗ lực hơn nữa trong việc tung ra các phần

mềm liên quan đến Internet, nhưng bước đi này của ông cũng làm các

cơ quan có thẩm quyền để mắt hơn đến hoạt động của công ty. Vào

năm 1997, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ chính thức tuyên bố Microsoft vi phạm

điều luật chống độc quyền, do đã  dùng hệ  điều hành Windows làm

điều kiện buộc các nhà sản xuất máy tính phải bán kèm các sản phẩm

của mình.


     Steve Ballmer được đề bạt giữ chức Chủ tịch kiêm Giám đốc điều

hành và Gates đảm trách cương vị Kiến trúc sư trưởng Bộ phận Phát

triển Phần mềm và Chủ tịch Tập đoàn trong khi những phán quyết

của Tòa án Liên bang tiếp tục được đưa ra. Năm 1999, một phiên tòa

cáo buộc Microsoft đã làm tổn hại nghiêm trọng đến quyền lợi của

người tiêu dùng do vi phạm luật chống độc quyền trong những bản

thương thảo với các đối tác của họ. Một năm sau đó, công ty bị yêu

cầu phải tách ra thành hai mảng có tư cách pháp nhân độc lập; một

mảng chuyên sản xuất hệ điều hành và mảng kia thị phát triển các

phần mềm ứng dụng. Microsoft đã  kịch liệt phản đối phán quyết này và
vào mùa thu năm 2000, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã
tuyên bố  rằng một cuộc điều trần phải được tiến hành trước khi có  một phán
quyết cuối cùng.


     Tính đến cuối năm 2007, Microsoft có 79.000 nhân viên ở  102 quốc
gia trên khắp thế  giới và  đạt doanh thu toàn cầu 51,12 tỉ đô la. Mã chứng
khoán của họ tại NASDAQ là MSFT (SEHK: 4338) hay thường được biết đến với ký hiệu MS.



    Bộ ứng dụng MS Office và hệ điều hành Windows của họ chiếm

đến 90% thị phần thế  giới trong các năm 2003 và  2006. “Đế  chế

Microsoft” đã sản sinh ra 4 tỉ phú và khoảng… 12.000 triệu phú tầm cỡ

thế giới kể từ ngày thành lập đến nay.


     Mục tiêu chiến lược tiếp theo của Microsoft là cuộc sống gia đình.

Họ sẽ tập trung phát triển các phần mềm và thiết bị cơ bản để liên kết

ba đối tượng: nhà riêng, công sở và từng cá nhân.   

Microsoft còn bước sang các lĩnh vực khác như đầu tư vào mạng

truyền hình cấp MSNBC, MSN Internet, Từ điển trực tuyến đa phương

tiện Microsoft Encarta. Các sản phẩm giải trí của họ như Xbox, Xbox

360, Zune và MSN TV được ca ngợi như  một nền văn hóa kinh doanh

lấy phát triển làm trọng tâm. Trang web chính thức của họ  là  một

trong những trang web có lượng truy cập lớn nhất thế giới (xếp thứ

18) với 2,4 triệu kết nối mỗi ngày, theo thống kê của Alexa.com.

Người đàn ông giàu có nhất hành tinh Bill Gates này có vợ - Melinda

French - và ba đứa con - hai gái và một trai. Đôi vợ chồng tỉ phú này còn

nổi tiếng với những hoạt động từ thiện của mình. Họ đã quyết định dành

95% gia tài để lập các quỹ phòng chống và đẩy lùi căn bệnh HIV-AIDS

và bệnh sốt rét. Ông cũng được Tạp chí Time phong danh hiệu “Người

đàn ông của Năm” năm 2005 vì những nỗ lực và đóng góp trong các hoạt

động nhân đạo.


       Như một giai thoại, người ta nói rằng nếu Bill Gates bắt gặp một

tờ giấy bạc 100 đô-la trên đường thị ông không nên nhặt. Bởi vì, trong

thời gian ông làm chuyện đó thị tài sản của ông đã tăng thïm… vài

chục ngân đô-la!


       Tạp chí Time  đánh giá  Bill Gates là  một trong 100 người có  ảnh

hưởng nhất thế  giới trong thế  kỷ  20 và  liên tục vào những năm đầu

(2004 – 2005 – 2006) của thế kỷ 21. Ngoài ra, tờ Sunday Times xếp ông

vào danh sách các “Anh hùng của Thời đại” năm 1999, tờ Chief Executive

Officers phong ông là “Giám đốc điều hành của Năm” năm 1994, …   

Bill Gates được phong Tiến sĩ Danh dự  từ  nhiều học viện khác

nhau trên thế giới như Đại học Kinh doanh Nyenrode, Breukelen, Hà

Lan, năm 2000; Học viện Công nghệ Hoàng gia Thụy Điển, năm 2002;

Đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản, năm 2005; Đại học Harvard, tháng

06/2007; và  Học viện Karolinska, Stockholm, Thụy Điển, tháng

01/2008. Ông được Nữ  hoàng Anh Elizabeth II phong tước Hiệp sĩ

Danh dự năm 2005. 



      BILL GATES ĐẾN VIỆT NAM

       Ngày 21/04/2006, “Người làm thay đổi thế  giới” Bill Gates đã

đến Việt Nam bằng chuyên cơ riêng theo lời mời của Thủ tướng Phan

Văn Khải. Ông đã dành hơn một giờ để nói chuyện với sinh viên Việt

Nam tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội sáng ngày 22/04/2006. 





          Trong cuộc gặp mặt của Bill Gates với các doanh nghiệp phần mềm

Việt Nam, cũng trong ngày 22/04/2006, ông nói: “ … Lúc này đây,
 điều các bạn cần làm là giải phóng nguồn nhân lực, phát triển công bằng
giữa các trường đại học, doanh nghiệp tư nhân, nhà nước và cá nhân,
đồng thời xác định rõ nhu cầu trong nước cũng như trên thế giới”.


BILL GATES RỜI “NGAI VÀNG” 

        Sau ba thập kỷ thống trị đế chế Microsoft, vào ngày 27/6/2008,

Bill Gates đã hoàn tất những thủ tục cuối cùng tại Tổng hành dinh

Microsoft để chính thức rời khỏi cương vị điều hành tập đoàn hùng

mạnh nhất thế giới này. Theo những hoạch định lớn lao từ hai năm

về trước, ông sẽ cùng vợ tập trung vào các nỗ lực từ thiện thông qua

Quỹ Bill & Melinda Gates Foundation để cải thiện tình hình sức khỏe

con người trên toàn cầu và bảo trợ các tài năng trẻ trong các trường

học, đặc biệt là ở Mỹ. Thách thức phía trước đối với ông có lẽ còn khó

khăn hơn nhiều so với những cuộc chiến không khoan nhượng với

những đối thủ  “truyền kiếp” của Microsoft như Apple, Google hay

IBM trước đây. Nhưng dường như không gì có thể ngăn cản nổi con

người dám nghĩ dám làm này.

Không có Bill Gates, con tàu Microsoft sẽ đi về đâu? Câu trả lời

chắc chắn sẽ đến trong một thời gian ngắn nữa, khi các “bửu bối”

do “Hoàng đế công nghệ” để lại cho những kẻ kế thừa được mang

ra sử dụng.


Bill Gates đã nói:

“Điều tuyệt vời ở một chiếc máy tính xách tay
là bất kể bạn nhồi nhét cho nó nhiều bao
nhiêu, nó vẫn không hề to ra hay nặng hơn.”

“THE GREAT THING ABOUT A COMPUTER NOTEBOOK
IS THAT NO MATTER HOW MUCH YOU STUFF INTO IT
IT DOESNT GET BIGGER OR HEAVIER.”


Read more ...